Cách gọi trong gia đình Việt Nam
Có nhiều người cho rằng việc gọi trong tiếng Việt rất phức tạp và gây phiền phức trong giao tiếp. So với việc gọi “you, me” hoặc “toi, moi” như trong tiếng Anh và tiếng Pháp, liệu có dễ dàng hơn không? Thật ra, cách gọi trong tiếng Việt không phức tạp và không gây phiền phức. Nó rất phong phú, rõ ràng, tuân thủ tôn ti trật tự, và rất lịch sự. Cách gọi trong tiếng Việt không gây phiền phức. Nếu có cảm thấy phiền phức, đó chỉ là do người sử dụng không biết cách sử dụng mà thôi.
Cách gọi trong tiếng Việt phản ánh nền văn minh lâu đời về gia giáo và quan hệ xã hội. Sự lễ phép và tôn ti trật tự là cách để phân biệt giữa dân tộc có văn minh lâu đời và dân tộc mới phát triển, cũng như phân biệt con người với động vật.
Để hiểu rõ hơn về cách gọi trong tiếng Việt, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về phong tục gọi trong gia đình Việt. Trong gia đình và họ hàng, chúng ta có các cách gọi riêng cho mỗi người. Trong xã hội, chúng ta cũng có các cách gọi đặc biệt dành cho từng người quen biết. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào cách gọi trong gia đình.
I. Cách gọi dành cho từng bậc trong gia đình
Người cha mẹ được gọi là cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú, và bác được gọi là ông bà. Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ được gọi là kỵ. Các ông bà trước đó được gọi là tổ tiên. Cha mẹ sinh ra các con. Các con này là anh chị em ruột của nhau, bao gồm anh trai, chị gái, em trai và em gái.
Người con trai đầu lòng của cha mẹ được gọi là anh cả (ở Bắc và Trung) hoặc anh hai (ở Nam). Cụm từ “anh hai” cũng có nghĩa là tiền, như câu ca dao “Trong túi không có anh hai thì không làm gì được.” Người con gái đầu lòng của cha mẹ được gọi là chị cả (ở Bắc và Trung) hoặc chị hai (ở Nam). Cụm từ “chị cả” cũng có nghĩa là vợ cả, như trong câu ca dao “Thấy anh, em cũng muốn chào, sợ rằng chị cả giắt dao trong mình.” Người con trai thứ hai được gọi là anh thứ (ở Bắc và Trung) hoặc anh ba (ở Nam). Cụm từ “anh ba” cũng được sử dụng để gọi một người đàn ông nào đó, như trong câu ca dao “Anh Ba kia hỡi anh Ba, đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu. Trầu này em chẳng ăn đâu, để thương để nhớ để sầu anh Ba. Để em bác mẹ gả chồng xa, thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!” Cụm từ “anh Ba” cũng được sử dụng để chỉ người đàn ông gốc Hoa.
Người con trai thứ bảy trong gia đình được gọi là anh bảy (ở Bắc). Cụm từ “anh bảy” cũng được sử dụng để gọi người Ấn Độ hoặc người Nam Dương. Khi chúng ta lấy vợ hoặc chồng và sinh ra con cái, con của các con được gọi là cháu (sẽ được giải thích chi tiết trong phần sau), con của cháu được gọi là chắt, con của chắt được gọi là chút và con của chút được gọi là chít. Vợ của các con trai được gọi là con dâu. Chồng của các con gái được gọi là con rể. Anh chị em của cha mẹ gồm chú, bác, cô, dì, cậu, mợ và dượng (sẽ được giải thích ở phần sau).
II. Cách gọi trong gia đình
Các bậc trong gia đình gồm có: tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút và chít. Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của các con chúng ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi chúng ta là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại hoặc gọi tắt là ngoại. Con của con trai chúng ta gọi chúng ta là ông bà nội, ông nội, bà nội hoặc gọi tắt là nội. Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ. Chút của chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi chúng ta là tổ tiên.
Danh xưng trong hai gia đình có con lấy nhau gồm thông gia, thân gia hoặc sui gia. Cách gọi giữa hai gia đình này hoặc với bạn bè là ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui và bà sui.
1. Với cha mẹ:
Khi nói chuyện với bạn bè hoặc gọi cha mẹ, chúng ta có các cách gọi như bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, v.v.
Khi gọi mẹ, chúng ta có các cách gọi như má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm và đẻ, v.v. Khi gọi cha, chúng ta có các cách gọi như bố, ba, thầy, cha, cậu và tía, v.v.
Thường thì chúng ta gọi mẹ nhiều hơn là gọi cha. Điều này cho thấy mẹ gần gũi với con hơn bố. Điều này giúp tình cảm giữa mẹ và con chặt chẽ hơn và có nhiều cách gọi hơn. Khi gọi cha mẹ của vợ, chúng ta có các cách gọi như ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ và mẹ vợ, v.v.
Khi nói chuyện với bạn bè, chúng ta có các cách gọi như nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, ông nhạc, cha vợ, ông ngoại các cháu và trượng nhân, v.v.
Khi nói chuyện với bạn bè, chúng ta có các cách gọi như mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại các cháu, nhạc mẫu, v.v. Khi gọi cha mẹ chồng, chúng ta có các cách gọi như cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu và những từ giống như phần dành cho cha mẹ mình. Khi nói chuyện với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, tùy theo nếp sống gia đình, chúng ta chỉ cần xưng hô như đã đề cập ở trên, trong phần gọi cha mẹ. Người chồng thứ của mẹ được gọi là cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu hoặc dượng. Người vợ thứ của cha được gọi là mẹ ghẻ, mẹ kế hoặc kế mẫu.
2. Với anh chị em của cha mẹ và ông bà
Anh của cha được gọi là bác, em trai của cha được gọi là chú, chị của cha còn được gọi là bác gái. Em gái của cha được gọi là cô hoặc o (có câu ca dao “Một trăm ông chú không lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ mồm”). Có nơi chị của cha cũng được gọi là cô hoặc o.
Anh của mẹ được gọi là bác hoặc cậu, em trai của mẹ được gọi là cậu, chị của mẹ được gọi là già hoặc bác gái, và em gái của mẹ được gọi là dì. Có những gia đình yêu cầu con cái gọi cậu và dì bằng chú và cô để tạo sự thân thiết giống nhau giữa hai gia đình bên ngoại và bên nội, tức là bất kể nơi nào cũng là bên nội.
Vợ của bác (anh của cha hoặc mẹ) được gọi là bác gái, vợ của chú được gọi là thím, và chồng của cô hoặc dì được gọi là chú hoặc chú dượng hoặc dượng. Chồng của bác gái hoặc già được gọi là bác hoặc bác dượng, và vợ của cậu là mợ.
Anh trai của ông bà nội và ông bà ngoại được gọi là ông bác (chú của cha hoặc mẹ mình), em trai của ông nội và ông ngoại được gọi là ông chú (chú của cha hoặc mẹ mình), chị của ông bà nội và ông bà ngoại hoặc vợ của ông bác được gọi là bà bác, em gái của ông nội và ông ngoại được gọi là bà cô (cô của cha mẹ mình), em trai của bà nội và ông ngoại được gọi là ông cậu (cậu của cha hoặc mẹ mình), em gái của bà nội và ông ngoại được gọi là bà dì và chồng của bà cô hoặc bà dì được gọi là ông dượng (dượng của cha hoặc mẹ mình). Tuy nhiên, trong cách gọi hàng ngày, chúng ta thường gọi giản tiện là chú, bác, ông hoặc bà để thay cho chú dượng, bác gái, ông bác, ông chú, ông cậu, ông dượng, bà bác, bà cô hoặc bà dì.
3. Với anh chị em:
Anh của vợ hoặc anh của chồng được gọi là anh hoặc bác, trong khi nói chuyện với người khác thì có thể dùng ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi hoặc anh chồng tôi. Tiếng anh chồng còn được sử dụng để gọi chồng của một người đàn bà trong nghĩa của câu: Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà mà thôi. Chị của chồng hoặc chị của vợ được gọi là chị hoặc bác, trong khi nói chuyện thì có thể dùng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà tôi, v.v. Em trai của chồng hoặc vợ được gọi là em hoặc chú.
Em gái của chồng hoặc vợ được gọi là em, cô hoặc dì. Các từ bác, chú, cô hoặc dì được sử dụng trong các trường hợp gọi anh chị là cách gọi anh, chị, em của mình.
4. Với vợ chồng:
Cách gọi vợ bao gồm em, cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.v.
Cách gọi vợ trong giao tiếp với người khác gồm nhà tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp nhỏ, má bày trẻ, tiện nội, nội tướng tôi, bà xã, bà xã tôi và vợ tôi, v.v. Cách gọi chồng gồm anh, cưng, anh nó, ba, ba nó, bố, bố nó, bố mày, bố thằng cu, đằng ấy, ông xã, cậu, cậu nó, ông, ông nó, cụ, ấy, mình, v.v.
Cách gọi chồng khi nói chuyện với người khác gồm nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ, ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xã, ông xã tôi, chồng tôi, trượng phu tôi, anh ấy, v.v.
Tình vợ chồng người Việt rất đằm thắm, họ yêu nhau với tất cả sự chân tình, đối đãi lịch sự và tôn trọng. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng mày và xưng tao. Họ tìm những lời dịu dàng, tràn đầy tình yêu thương để gọi nhau. Vì vậy, cách gọi giữa vợ chồng người Việt có rất nhiều, nhiều hơn cách gọi giữa vợ chồng người Tây. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ chửi thề và tục tĩu với nhau, đặc biệt là trước mặt bạn bè.
5. Với con cháu:
Con trai đầu lòng được gọi là con trai trưởng hoặc con trai trưởng nam (có người gọi thân mật là cậu trưởng tôi, thằng trưởng nam nhà tôi). Vợ của con trai được gọi là con dâu. Vợ của con trai trưởng nam được gọi là con dâu trưởng. Con gái đầu lòng được gọi là trưởng nữ. Chồng của con gái được gọi là con rể. Chồng của con gái đầu lòng được gọi là con rể trưởng. Các con trai hoặc con gái kế tiếp được gọi là thứ nam hoặc thứ nữ. Con được sinh ra trước cùng được gọi là con cả hoặc con đầu lòng. Con trai hoặc con gái cuối cùng của gia đình được gọi là con út, con út nam hoặc con út nữ. Nếu vợ chồng chỉ có một con trai hoặc con gái, người con đó được gọi là con một. Con của vợ hoặc của chồng trước hoặc sau khi lấy nhau được gọi là con ghẻ hoặc con riêng. Đứa con mới sinh được gọi là con đỏ. Con nhỏ được gọi là con mọn. Khi người đàn ông già rồi mới có con, người ta gọi cảnh đó là cảnh cha già con mọn. Con gia đình quyền thế được gọi là con ông cháu cha. Con của con trai mình được gọi là cháu nội (cháu nội trai, cháu nội gái); con trai đầu lòng của con trai trưởng nam được gọi là cháu đích tôn, đích tôn thừa tự hoặc đích tôn thừa trọng, tức là con trưởng nối nghiệp lớn của ông bà và