“Phải chăng ngữ pháp Việt Nam phức tạp hơn cả cuộc sống giữa bão táp?” Điều này thực sự đúng khi nói về độ phong phú và phức tạp của đại từ chỉ người trong tiếng Việt. Việc sử dụng đúng các đại từ không chỉ làm rối não cho người học tiếng Việt mà còn gây nhầm lẫn cho người Việt. Vậy đại từ chỉ người là gì? Làm thế nào để sử dụng các đại từ này một cách đúng? Hãy cùng tìm hiểu thêm về vấn đề này qua bài viết dưới đây.
Tìm hiểu tổng quan về đại từ
Theo định nghĩa của tiến sĩ Nguyễn Văn Thành trong cuốn “Tiếng Việt hiện đại,” đại từ là các từ được sử dụng để chỉ người, vật hoặc ngôi thứ thay thế cho các danh từ cụ thể và để xác định rõ ràng các danh từ. Đại từ chỉ người được chia thành ba loại: đại từ chỉ ngôi, đại từ dùng để hỏi và đại từ dùng để thay thế từ đã sử dụng.
Đại từ chỉ ngôi là gì?
Đại từ chỉ ngôi, còn được gọi là đại từ nhân xưng, là các từ được sử dụng để xưng hô, chỉ ngôi hoặc đại diện cho danh từ. Đại từ chỉ ngôi có thể thay thế cho người nói như: tôi, tao, chúng tôi, chúng ta, mày, chúng mày… hoặc để chỉ người và vật được nhắc đến như: nó, họ, hắn, y, thị…
Đại từ chỉ ngôi được sử dụng ở ba ngôi: đại từ thứ nhất dùng để tự xưng, đại từ thứ hai dùng để gọi người nghe và đại từ thứ ba dùng để chỉ người hoặc vật được nhắc đến. Đại từ chỉ ngôi có số ít và số nhiều.
Các loại đại từ chỉ ngôi
Đại từ chỉ ngôi có thể được chia thành ba loại dựa trên ngôi giao tiếp. Mỗi loại đại từ này còn được chia làm số ít và số nhiều, cụ thể:
1. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (chỉ người đang nói: tôi, tao, tớ, mình, bọn mình, chúng ta, bọn ta…)
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít (tôi, tao, tớ, mình, …)
Trong trường hợp nói chuyện với mọi người, cách xưng hô sẽ thay đổi tuỳ theo trường hợp, mối quan hệ, độ thân thiết. Dưới đây là một số cách xưng hô phổ biến:
- Xưng hô bằng “con” khi nói chuyện với ông bà, cha mẹ, những người bà con cùng thế hệ hoặc thầy cô giáo.
- Xưng hô bằng “cháu” khi nói chuyện với ông bà, chú bác, cô dì hoặc những người cùng tuổi.
- Xưng hô bằng “em” khi nói chuyện với anh chị, những người lớn tuổi hơn hoặc có vị trí cao hơn, hoặc khi muốn thể hiện tình cảm đối tác với chồng (nếu mình là phụ nữ) hoặc người đàn ông có tình cảm đối tác với mình, hoặc với thầy cô giáo.
- Xưng hô bằng “anh” hoặc “chị” khi nói chuyện với các em, những người mà mình coi là em.
- Xưng hô bằng “cô”, “dì”, “bác”, “thím” với người thân trong gia đình, những người trẻ tuổi được coi là con cháu.
- Xưng hô bằng “tôi” khi nói chuyện với mọi người lớn hơn hoặc ngang tuổi.
- Xưng hô bằng “tao” hoặc “ta” trong một số trường hợp không cần giữ lễ, hoặc khi muốn thể hiện uy quyền, tức giận hoặc hỗn loạn.
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều (bọn mình, bọn tao, chúng tao…)
2. Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai (chỉ người đang giao tiếp cùng: bạn, cậu, mày, anh, chị, chúng mày, các cậu, các bạn…)
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít (mày, mi, bạn, cậu, chị,…)
Trong mối quan hệ cha-con, mẹ-con, khi nói chuyện với cha mẹ, con có thể được gọi bằng “con” hoặc “mày”. Đối với con đã có gia đình hoặc có vị trí, người Bắc gọi con bằng “anh” hoặc “chị”. Con gọi cha mẹ bằng nhiều từ khác nhau như Cha, bố, ba, thầy, cậu, tía; mẹ, má, mợ, me, măng, bu, bầm, u…
Khi nói chuyện với người trong gia đình, ta sẽ tùy theo quan hệ để xưng hô bằng: Bác, chú, cậu, dượng, cô, dì, thím, anh, chị, dượng nó, chú nó… Khi nói chuyện với người ngoài gia đình, xưng hô sẽ tùy thuộc vào tuổi tác như: Cụ, ông, bà, anh, chị, chú, mày…
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số nhiều (chúng mày, chúng bay, chúng mi, các mày…)
3. Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (chỉ những người không tham gia giao tiếp nhưng được nhắc đến trong cuộc giao tiếp: nó, anh ta, hắn, y, bọn ấy, cô ấy, bạn ấy…)
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít (nó, hắn, y,…)
Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít có thể được tạo ra bằng cách kết hợp từ “ta” hoặc “ấy” với các từ chỉ quan hệ thân thuộc. Ví dụ: ông ta, ông ấy, bà ta, bà ấy, anh ta, anh ấy…
+ Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều (chúng nó, chúng hắn, họ, chúng…)
Ngoài ra, có một số danh từ dùng để xưng hô một cách chính thức như: bạn, đồng chí, ngài, vị… và các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học vị như giám đốc, thủ trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống, thầy giáo, cô giáo, bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ… cũng được sử dụng làm đại từ nhân xưng (ngôi thứ hai).
Một số ví dụ về đại từ chỉ người trong văn học
Sau khi đã tìm hiểu về đại từ chỉ người là gì? Hãy cùng xem một số ví dụ về việc sử dụng đại từ chỉ người trong văn học:
+ Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ người”
Tác giả đã linh hoạt sử dụng đại từ “mình – ta” trong bài thơ “Việt Bắc.” Trong lời đồng bào Việt Bắc, đại từ “mình” thường được sử dụng ở ngôi thứ hai để chỉ cán bộ kháng chiến, còn đại từ “ta” được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của đồng bào Việt Bắc. Cách xưng hô này đã giúp nhà thơ thể hiện tư tưởng và chủ đề của tác phẩm một cách sâu sắc. Điều này đã biến một bài thơ hiện đại thành một bản tình ca đậm đà tình dân tộc.
+ Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng đại từ chỉ người rất đa dạng để thể hiện thái độ của nhà thơ và nhân vật đối với nhau, cũng như để tạo nét đặc trưng cho các nhân vật.
Ví dụ 1:
“Người ta ai mất tiền hoài tới đây (Tú Bà)”
“Quan trên trông xuống, người ta trông vào (Hồ Tôn Hiến)”
“Lại như những thói người ta (Kiều)”
“Sống làm vợ khắp người ta (Kiều)”
Đại từ “người ta” ở đây thể hiện sự chua cay, ngao ngán khi nhắc đến thiên hạ.
Ví dụ 2:
“Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ”
“Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.”
“Lầu xanh có mụ Tú Bà”
“Khuyển, Ưng lại chọn một bầy côn quang”…
Nhà thơ sử dụng các đại từ như “thằng”, “gã”, “mụ”, “bầy” để thể hiện sự khinh bỉ, chê bai và coi thường.
Trên đây là những nội dung liên quan đến đại từ chỉ người là gì? Hy vọng những thông tin trên sẽ hữu ích và giúp bạn giải đáp phần nào thắc mắc. Để biết thêm thông tin chi tiết, hãy truy cập trang web HEFC.
Được chỉnh sửa bởi: HEFC