Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?

Các Nhân Vật Quan Trọng Trong Sự Phát Triển Chữ Quốc Ngữ – Phần 2

Trải qua 400 năm, người Việt đã nhận và tự hào về bộ chữ Quốc Ngữ này, nhưng họ hiếm khi hiểu rõ về lịch sử của nó. Họ không biết chính xác ai đã tạo ra chữ Việt, liệu đó có phải là Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes? Mọi người cũng không biết nó được khám phá ở đâu, được lưu giữ như thế nào, lan truyền ra sao, và khi nào trở thành chữ viết thông dụng.

Đóng Góp Của Người Bồ

Trong thế kỷ 15 đến 17, những nhà buôn Bồ Đào Nha xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Cùng với họ là các nhà truyền giáo, đa số là người Bồ và người Ý, họ truyền đạo trong những vùng đất mới. Trong số 145 giáo sĩ đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, đã có 74 người Bồ Đào Nha và 30 người Ý.

Dòng Tên (Jesu), dòng tu truyền giáo trong thời kỳ đó, theo quy định của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới, phải học tiếng địa phương. Với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa ngôn ngữ nói và chữ viết của địa phương để những người theo đạo có thể đọc được sách kinh. Những chữ Latin này sau đó được chuyển giao cho các giáo sĩ đến sau. Phương pháp này đã được thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brazil… trong thế kỷ 15 và 16, trước khi đến Việt Nam.

Ở Viễn Đông, dòng Tên đã thiết lập một trụ sở lớn và lâu đời ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ. Vào đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và học tiếng Việt. Sau đó, họ bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.

Bảng Chữ Ban Đầu

Các tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) năm 1621 đã có những chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam), Sinoa (xứ Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Thuận Hóa), ungue (ông nghè)… Còn giáo sĩ Cristoforo Borri (người Ý) đã viết những chữ như Tunchim (Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có).

Tới năm 1621, chữ quốc ngữ vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626, đã xuất hiện các chữ có dấu thanh như Dĩgcham (Đinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt). Vào năm 2018, di cảo của Pina đã được tìm thấy tại Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha, chứng minh rằng chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay.

Công Trình Công Cộng

Có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời không chỉ do một người, mà là kết quả của sự hợp tác của nhiều người trong khoảng từ năm 1618 đến 1625. Đa số “tác giả” của chữ quốc ngữ là người Bồ Đào Nha, người Ý và một số người Việt theo đạo Thiên Chúa. Người được xác định là người giỏi tiếng Việt nhất và có công lớn nhất trong việc tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.

Francesco de Pina đến Hội An vào đầu năm 1617, thành lập trụ sở Nước Mặn năm 1618, sau đó thành lập trụ sở Thanh Chiêm (Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina định cư tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối do vướng áo chùng khi thuyền chìm trên biển Cù Lao Chàm. Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre) tại xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Sau khi Pina qua đời, học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624 và mang tất cả tài liệu của thầy về Macau vào năm 1626. Ở Macau, còn hai giáo sĩ khác là Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cũng nghiên cứu chữ quốc ngữ và soạn thảo hai cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt. Đáng tiếc là công trình của hai người này chưa kịp công bố, vì Gaspar mất trên đường đi Việt Nam vào tháng 2-1646 và Barbosa cũng mất vì bệnh sau đó một năm.

Trong cuốn Tự điển Việt – Bồ – La, Đắc Lộ đã đề cập đến việc “tham khảo” tài liệu của hai giáo sĩ này, cho thấy ông đã thừa hưởng những công trình do người khác sáng tạo ra để hoàn thành cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên trên thế giới. Điều đáng tiếc là hai cuốn từ điển của Gaspar và Barbosa chưa được tìm thấy. Chúng ta hy vọng rằng số phận của chúng giống như cuốn từ điển của Bá Đa Lộc, được phục dựng sau khi tưởng đã bị cháy trong một vụ hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào những năm 1980.


Kỳ Tới: Người Đầu Tiên Tạo Ra Chữ Quốc Ngữ

HEFC đã chỉnh sửa bài viết này. Hãy truy cập hefc.edu.vn để biết thêm thông tin!

Related Posts

Dịch Tên Sang Tiếng Trung

Các HỌ trong Tiếng Trung Theo thống kê, ở Việt Nam có khoảng 14 nhóm họ phổ biến, với đa số dân số mang những họ này….

Bỏ túi từ vựng tiếng Anh về tình yêu để “thả thính” crush

Bạn là một người yêu thích sự lãng mạn? Bạn muốn biết những câu “pickup line” (câu thả thính) để có thể “cưa đổ” trái tim người…

Cách xưng hô trong gia đình và thứ bậc, vai vế trong các gia đình Việt

Như đã biết, cách xưng hô trong gia đình Việt rất đa dạng và phong phú. Không giống như các nước Châu Mỹ hay Châu Âu, ngôn…

Cáo phó là gì? Ý nghĩa và nội dung bảng cáo phó

Một trong những việc cần thiết và quan trọng ngay sau khi ai đó qua đời là lập bảng cáo phó. Nhưng cáo phó là gì? Tại…

Tổng Hợp Các Câu Ngôn Ngữ Mạng Của Giới Trẻ Trung Quốc

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các câu ngôn ngữ mạng phổ biến của giới trẻ Trung Quốc. Khi lướt qua các…

[2023 CẬP NHẬP] Bảng chữ cái tiếng Việt chuẩn Bộ Giáo Dục mới nhất

Video bảng chữ cái mầm non Bảng chữ cái tiếng Việt là nền tảng quan trọng nhất để học tiếng Việt. Ở bài viết này, trường mầm…