Nguyên nhân
Thuốc nổ TNT là một loại chất lỏng phổ biến, không màu hoặc có màu vàng nhạt. Đây là một chất dễ cháy, có tỷ trọng 1.65, điểm nóng chảy 820°C và điểm sôi 2400°C. TNT tan trong ête, dễ tan trong axetôn và benzen, nhưng không tan trong nước.
TNT hiện nay được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự và công nghiệp khai thác mỏ, khai thác đá. Nồng độ tối đa cho phép ở Liên Xô cũ là 1mg/m3, tại Hoa Kỳ (ACGIH) là 1.5mg/m3, và ở Việt Nam là 1mg/m3 không khí. TNT có thể xâm nhập vào cơ thể qua da, hệ hô hấp hoặc hệ tiêu hóa.
Ở Việt Nam, đã phát hiện và xác định nhiều trường hợp nhiễm độc TNT tại một số xí nghiệp quốc phòng và xí nghiệp khai thác mỏ. Nhiễm độc TNT thường là do tiếp xúc chất này trong quá trình sản xuất, sử dụng và bảo quản. Ví dụ, các nhà máy sản xuất đạn dược của quân đội, nhà máy khai thác đá, than và khoáng sản. TNT có thể xâm nhập vào cơ thể qua nhiều con đường (da, hô hấp, tiêu hoá). Khả năng gây hại của TNT là do tác động trực tiếp lên tế bào và tương tác với một số gốc hữu cơ, gây ra các rối loạn chức năng tương ứng.
Bệnh lý
TNT có thể gây ra nhiều biểu hiện bệnh lý khác nhau trên nhiều cơ quan trong cơ thể.
1. Viêm da
Triệu chứng thường gặp là viêm da, da sạm màu, xuất hiện ban nổi tại vùng tiếp xúc, kèm theo phù và vảy da. Tỷ lệ này đại diện cho 5-10% trong số các trường hợp nhiễm độc TNT. Theo Đỗ Thị Tuyên, khoảng 4.8% người tiếp xúc với TNT sẽ bị viêm da dị ứng. Ngoài ra, TNT còn có thể gây ra bệnh eczema không điển hình.
2. Methemoglobin huyết (MetHb) (dù tiếp xúc với nồng độ thấp 1mg/m3)
TNT có khả năng oxy hóa phân tử sắt trong huyết sắc tố, gây ra MetHb. Nếu MetHb tăng cao, sẽ làm cho môi, dái tai có màu xanh tím, khó thở, buồn nôn, mệt mỏi và co thắt sau xương ức. Tỷ lệ MetHb cao (trên 20% có MetHb 1%) thường xuất hiện ở người bị bệnh hoặc tiếp xúc với TNT. Ellis và CS đã chứng minh hiện tượng MetHb và màu xanh tím trên động vật thực nghiệm.
3. Viêm niêm mạc dạ dày, hành tá tràng
TNT có tác động kích thích lên đường tiêu hoá, gây ra các triệu chứng như buồn nôn, nôn mửa và đau vùng thượng vị, không liên quan đến bữa ăn. Tỷ lệ này thường cao hơn 20% ở những người tiếp xúc với TNT.
4. Tổn thương gan
TNT có khả năng gây tổn hại và làm thoái hoá mỡ tế bào gan ở mức độ khác nhau, phụ thuộc vào liều lượng và thời gian tiếp xúc. Kết quả của nhiễm độc TNT là gan to, da vàng mục, nước tiểu sẫm màu ở mức độ khác nhau. Theo các tài liệu lưu trữ tại Nga từ năm 1944 đến 1963, có 454 trường hợp viêm gan, trong đó 51 trường hợp là viêm gan do nhiễm độc hợp chất nitro có nhân benzen (25 người bị viêm gan cấp). Phân tích bệnh lý gan từ sinh thiết cho thấy tỷ lệ thoái hoá mỡ tế bào gan ở nhiều mức độ khác nhau. Trong một nghiên cứu tại hội đồng giám định Y khoa về các bệnh nghề nghiệp của quân y viện 103 từ năm 1992 đến 1995, có 26 công nhân được chẩn đoán là nhiễm độc TNT nghề nghiệp, tất cả đều bị viêm gan mạn tính, 4 người trong số họ đã phát triển thành xơ gan. Theo Nguyễn Hưng Phúc và cộng sự, khi quan sát động vật thí nghiệm bị nhiễm độc TNT cấp tính, 50-60% đã tổn thương gan và da vàng xuất hiện do tăng màu mật 20-30%. Hiện tượng da vàng này là kết quả của thoái hoá và hoại tử tế bào gan.
5. Thiếu máu
Đây là hiện tượng tổn thương cơ quan tạo huyết do tiếp xúc với TNT. Khi nồng độ TNT trong không khí là 1mg/m3, huyết sắc tố sẽ giảm, làm cho da và niêm mạc tái nhợt. Trong hồng cầu, sẽ xuất hiện các thể Heinz. Nếu tiếp xúc thường xuyên với nồng độ TNT từ 3.5 đến 7mg/m3, dễ dàng gây thiếu máu bất sản tủy. Tỷ lệ thiếu máu do nhiễm độc TNT chiếm 80-90% trong số các trường hợp.
6. Tổn thương mắt
TNT gây ra việc xuất hiện đục nhân mắt dưới dạng vòng cung bên trong nhân. Các vòng cung này nối tiếp nhau tạo thành một hình tròn không đều. Đục nhân mắt là dấu hiệu mạn tính của nhiễm độc TNT, giống như một số kim loại nặng khác, cần phải chẩn đoán để phân biệt nguyên nhân.
7. Suy nhược thần kinh
Hậu quả của suy nhược thần kinh thường do các cấu trúc thần kinh nhạy cảm bị ảnh hưởng. Cả thần kinh thực vật và thần kinh trung ương đều bị ảnh hưởng sớm và đa dạng, thường là mạn tính. Các trường hợp nhiễm độc TNT cấp tính có thể bắt đầu với triệu chứng buồn ngủ, nhức đầu và chóng mặt, sau đó tiến triển thành đau đớn và có thể gây ra rối loạn tâm thần. Rối loạn thần kinh thực vật thường gặp (hơn 30%), nhưng cũng dễ bị nhầm lẫn với nguyên nhân khác. Hiện tượng tăng tiết mồ hôi là triệu chứng thường gặp trong hầu hết các trường hợp nhiễm độc TNT cấp tính. Các triệu chứng thần kinh bị kích thích cũng xuất hiện với tỷ lệ đáng kể.
8. Tổn thương cơ quan sinh dục
Thử nghiệm trên người đã chứng minh rằng TNT gây tổn thương cho cơ quan sinh dục tương tự như ung thư và đột biến. Thí nghiệm trên chuột và chó đã cho thấy các triệu chứng teo tinh hoàn và thoái hoá tế bào gốc trong ống sinh tinh. Kết quả của việc này là giảm số lượng tinh trùng, tổn thương ống sinh tinh và biến dạng tinh trùng.
9. Kết quả xét nghiệm y tế
Người nhiễm độc TNT có thể thấy những thay đổi cận lâm sàng thường gặp trong máu và nước tiểu. Thông thường, số lượng hồng cầu trong máu dưới 3.400.000/mm3, huyết sắc tố trong máu dưới 12g/100ml và có thể thấy các thể Heinz trong hồng cầu. Do tác động của chất độc, tỷ lệ MetHb tăng hơn 1% so với tổng lượng huyết sắc tố. Nếu tỷ lệ này tăng quá cao, đó chứng tỏ nhiễm độc nặng và không nên tiếp tục tiếp xúc với TNT. Theo Linch.A L (1989), một lượng MetHb từ 5-10% được coi là có ý nghĩa và nếu vượt quá 10%, coi như có sự tiếp xúc quá mức với chất N (gây xanh tím). Khi lượng MetHb đạt 20%, cần điều trị ngay, MetHb và thể Heinz trong hồng cầu có thể trở về âm tính sau khi ngừng tiếp xúc với TNT.
Xét nghiệm TNT trong nước tiểu có thể cho kết quả dương tính. Ở người bình thường, không có TNT trong nước tiểu. Bên cạnh đó, cần phải thực hiện các xét nghiệm chức năng gan, nội soi dạ dày và các xét nghiệm khác để đánh giá tổng hợp tình trạng bệnh lý.
Chẩn đoán
Người lao động làm việc trong môi trường có nồng độ hơi TNT vượt quá giới hạn tối đa (1mg/m3 không khí) hoặc tiếp xúc với lượng lớn TNT qua da, có thể coi là người có nguy cơ nhiễm độc TNT nếu có các triệu chứng bệnh lý kết hợp với các xét nghiệm phù hợp. Tuy nhiên, cần cân nhắc để phân biệt với nhiều bệnh tương tự, đặc biệt là nhiễm độc benzen và nhiễm độc dioxid nitơ (NO2).
Điều trị và phòng ngừa
Trong công nghệ, cần lắp đặt hệ thống hút gió chung và cục bộ để hạ thấp nồng độ TNT dưới mức giới hạn tối đa, kết hợp với công tác tuyên truyền và giáo dục cho người lao động trong môi trường ô nhiễm. Cần thường xuyên sử dụng quần áo bảo hộ, khẩu trang và mặt nạ, đồng thời đảm bảo có buồng tắm và xà phòng để công nhân tắm sau ca làm việc, cũng như mặc quần áo sạch trước khi về nhà.
Kiểm tra định kỳ nồng độ TNT trong không khí tại nơi làm việc và thiết lập tiêu chuẩn môi trường lao động có liên quan đến TNT là rất cần thiết. Không đưa những người có bệnh máu, gan và mật làm việc trong môi trường có hơi TNT. Kiểm tra y tế định kỳ mỗi 6 tháng, và cần tiến hành xét nghiệm nước tiểu để phát hiện sớm sự thấm nhiễm TNT, bên cạnh theo dõi và giám sát chặt chẽ các triệu chứng bệnh lâm sàng./.
Edited by HEFC.