Lam Sơn – Cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược và khôi phục độc lập cho nước Đại Việt – là một trang sử vang dội. Cuộc khởi nghĩa này được lãnh đạo bởi vị tướng Lê Lợi cùng đồng đội như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, và nhiều nhà lãnh đạo và chiến sĩ khác. Tổng cộng, khởi nghĩa Lam Sơn được chia thành ba giai đoạn quan trọng: hoạt động ở vùng núi Thanh Hoá (1418-1425), tiến công ra Bắc (1425-1427) và cuối cùng là chiến thắng tại Chi Lăng – Xương Giang (1427).
1. Thời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418 – 1425)
Đây là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Ban đầu, quân Lam Sơn chỉ có khoảng 2000 người, cùng với sự thiếu thốn về lương thực. Chỉ có thể thắng được vài trận nhỏ. Quân Lam Sơn đã ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh để tránh được cuộc tấn công từ quân Minh. Trong hoàn cảnh nguy khốn này, Lê Lợi buộc phải xin giảng hòa với quân Minh vào năm 1422. Tuy nhiên, năm 1423, khi lực lượng được gia tăng và quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi đã chấm dứt giảng hòa.
Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, Lê Lợi đã quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An vào năm 1424. Đây là một bước đi chiến lược quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vào cuối năm 1425, quân Lam Sơn đã nhanh chóng đánh bại quân Minh và chiếm được toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa đến Tân Bình – Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế).
2. Tiến công ra Bắc (1425 – 1427)
Vào tháng 9 năm 1426, Lê Lợi đã chia quân thành ba cánh để tiến vào Đông Quan. Quân Lam Sơn tăng cường sức ép, bao vây thành Đông Quan, trong khi quân Minh chủ động tổ chức phòng thủ trong thành. Tháng 10 cùng năm, quân Minh đã rút một số binh lính từ Nghệ An để gia tăng đội ngũ phòng thủ cho Đông Quan. Tại Vân Nam, Mộc Thạnh cũng được chỉ đạo tuyển mộ 15 ngàn binh lính và 3 ngàn cung thủ. Vương Thông và Mã Anh đã đưa quân đến tiếp viện và hợp nhất với quân tại Đông Quan, tạo thành một lực lượng đông đảo. Trong khi đó, Đinh Lễ và Nguyễn Xí đã đặt quân phục binh ở Tốt Động, Chúc Động (huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay). Khi biết Vương Thông định chia đường để tấn công Lê Triện, hai vị tướng này đã lập kế hoạch dụ Vương Thông vào Tốt Động để tiêu diệt. Quân của Vương Thông thất bại, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Vương Thông và các tướng lãnh khác đã chạy về Đông Quan để tự vệ.
Lê Lợi biết tin chiến thắng liền sai Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị chia làm hai đường tiến ra Đông Quan, bao vây thành phố.
3. Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang (1427)
Vào cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông đã điều binh đến giải cứu Vương Thông bằng cách sai Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân từ Quảng Tây và Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân từ Vân Nam. Cả hai tướng này đều từng tham gia cuộc chiến với Đại Việt trong thời kỳ nhà Hồ và nhà Hậu Trần.
Sau khi nghe tin có binh lực tiếp viện, nhiều tướng muốn tấn công Đông Quan để giành chiến thắng ngay lập tức. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng không nên tấn công lập tức vì quân trong thành quá đông đúc và khó lòng chiếm được ngay. Do đó, Lê Lợi quyết định dẫn quân ra chặn binh lực tiếp viện trước để làm giảm sức mạnh của địch ở Đông Quan. Đồng thời, Lê Lợi kiếm được thông tin rằng Liễu Thăng là quân chủ lực của quân Minh, vì vậy ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh và Đinh Liệt dẫn quân phục ở Chi Lăng và sai Lê Văn An, Nguyễn Lý dẫn quân tiếp viện. Đối với quân của Mộc Thạnh, Lê Lợi biết rằng Mộc Thạnh là một vị tướng lão luyện, sẽ không hành động cho đến khi Liễu Thăng thắng hoặc thua. Vì vậy, ông sai Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả giữ vững vị trí mà không tấn công.
Trần Lựu, tướng trấn chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới, đã liên tục giả vờ chạy trốn về Ải Lưu và sau đó lại rút lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Liễu Thăng đã đuổi theo đến Chi Lăng. Trần Lựu thua, và Liễu Thăng tiếp tục tiến đánh với 100 quân kị. Ngày 20 tháng 9, Liễu Thăng bị quân phục binh của Lê Sát và Trần Lựu tiêu diệt.
Nhân cơ hội này, các tướng đã tấn công quân địch và tiêu diệt hơn 1 vạn quân, giết được Lương Minh và Lý Khánh. Còn lại chỉ có Hoàng Phúc và Thôi Tụ cố gắng rút quân về thành Xương Giang để tự vệ, nhưng khi đến nơi mới biết rằng thành đã bị quân Lam Sơn chiếm, và họ buộc phải đóng quân ở ngoại ô không thể quay trở lại được. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường cung cấp lương thực và sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp viện cho Lê Sát tấn công, tiêu diệt 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt.
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua liền rút quân. Đến cuối năm 1427, Vương Thông xin hòa và rút quân khỏi đất nước ta, chiến tranh kết thúc. Vào ngày 29 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, lập triều Hậu Lê và đặt Quốc hiệu là Đại Việt./.
[HEFC đã chỉnh sửa phần dưới]
Bài viết được chỉnh sửa bởi HEFC. Để biết thêm thông tin về lịch sử và giáo dục, vui lòng truy cập HEFC.