Huyền thoại nói chung luôn là ký ức nhân loại để lưu giữ những gì là bản sắc. Truyền thuyết xưa nhất vùng ngã ba này là câu chuyện hai vị thần có tên Thạch Khanh và Thổ Lệnh thi nhau nhảy qua sông. Làm nghề nông nghiệp gắn liền với đất đai trồng cấy nên tác giả dân gian để phần thắng thuộc về thần Thổ Lệnh (Thổ nghĩa là đất. Thạch nghĩa là đá), từ đó thần được thờ tại đền Bạch Hạc.
Huyền thoại gần với sự thật hơn thì đó là nơi hợp lưu của sông Hồng, sông Đà, sông Lô là vùng đất thiêng phát tích cội nguồn các dân tộc Việt, nơi đất Tổ vua Hùng. Từ mẫu cổ này sinh ra nhiều huyền thoại khác còn giữ lại đến nay trong đó có tục lấy nước thiêng. Phải đúng 12 giờ đêm lúc vũ trụ giao hòa, phải là người đức độ, chăm chỉ chèo thuyền ra giữa ngã ba sông lấy nước. Đó không còn là nước mà là “lộc” của tổ tiên, linh khí của trời đất thiên nhiên… Đó là chuyện tâm linh, còn trong thực tế thì dòng sông đem lại may mắn cho con người bằng đặc sản cá, trong đó có “cá tiến vua” rất quý hiếm, như các loài cá anh vũ, dầm xanh, lăng chấm…
Ngược dòng Lô từ vùng Ngã ba Hạc đến Tuyên Quang thì là cả một không gian văn hóa về Mẫu Thoải. Kể rằng Kinh Dương Vương đem lòng yêu mến và lấy con gái của Long Vương làm vợ rồi sinh ra Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân, Thủy tổ của bộ tộc Lạc Việt. Về sau dân gian tôn người Mẹ của Lạc Long Quân là Mẫu Thoải (tức Mẹ Nước) để ghi nhận công lao to lớn của Bà không chỉ sinh ra vị Vua đầu tiên mà còn giúp dân làm ăn, chống giặc giã, thú dữ… Dọc lưu vực sông hiện còn cả một hệ thống ban thờ Mẫu trong các đền, chùa từ Việt Trì, Đoan Hùng, Thanh Ba, Hạ Hòa,…cho đến Tuyên Quang.
Huyền thoại nào cũng có điểm tựa, có gốc là sự thật. Cái gốc ấy, điểm tựa ấy càng vững chắc thì huyền thoại càng bay cao bay xa. Theo lẽ tự nhiên, dòng sông Lô huyền thoại được chảy từ dòng sông Lô hiện thực. Một dòng sông trong vắt của ca dao: “Sông Lô một dải trong ngần/ Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên”. Cảnh đẹp trữ tình và thơ mộng là cảm hứng cho bài phú nổi tiếng “Ngã Ba Hạc phú” của cụ Nguyễn Bá Lân (1701-1785) thời vua Lê Hiển Tông. Bài phú nói thay người xưa cảm nhận về cái đẹp tự nhiên của dòng sông quê hương: “Xinh thay ngã ba Hạc/ Lạ thay ngã ba Hạc/ Trên chia ba ngác/ Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp/ Dòng biếc lẫn dòng đào”.
Đến thời hiện đại hình như dòng sông có cá tính hơn: “Việt Bắc có con sông Lô/ Mùa mưa ngập bến, mùa khô cạn dòng” (“Ca dao”). Cá tính không chỉ là phẩm chất của chủ thể sáng tạo mà còn cần ở cả đối tượng thẩm mỹ. Nhờ vậy chăng mà sông Lô đi vào nhạc Văn Cao không giống với bất kỳ một dòng sông nào khác: “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u/ Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu…” (Trường ca sông Lô). Sông Lô trở thành huyền thoại gắn liền với chiến dịch Sông Lô lịch sử (Thu Đông 1948) quân và dân ta chôn vùi hàng ngàn xác giặc, đốt cháy nhiều tàu chiến, bẻ gãy ý đồ tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc của quân xâm lược Pháp.
Bài hát “Lô giang” của Lương Ngọc Trác vượt qua sự kể hay miêu tả để vươn tới sự khái quát cao về hình tượng, chỉ qua một câu hát “Lũ Tây kinh hoàng trốn xuống đáy sông làm ngầu nước xanh”. Lúc này nhạc cũng là thơ với sự cô đọng hàm súc, giàu nhạc tính, diễn tả nhiều ý nhất trong lượng ngôn từ ít nhất, ngoài diễn tả sự thua trận thảm hại, còn nói về sự hèn nhát, khiếp nhược của kẻ thù. Nói về cái chết và đổ máu mà không hề có ngôn từ về máu đổ và cái chết; nói về hiện tại mà đưa người đọc liên tưởng về quá khứ, “làm ngầu nước xanh” tức hiện tại thì nước đục, thậm chí nước đỏ (vì máu), còn trước đó thì “nước xanh”…
Giặc tan, dòng sông lại thao thiết chảy ngợi ca hòa bình, niềm vui và cái đẹp. “Trường ca sông Lô” trở thành nhạc phẩm bất hủ của một tài năng lớn Văn Cao nhờ nó đi vào lòng người để nói lên những gì tha thiết khát khao nhất của con người yêu con người và yêu hòa bình, xứ sở: “Trên dòng sông trở về đoàn người, reo mừng vui trên sóng nước biếc/ Dân hân hoan nghe sóng réo vi vu/ Xa xa đường ngập người bao gió ngát vi vu hiền hòa…”.
Người vui, đời vui, trời vui, dĩ nhiên sông và rừng cũng vui, cũng hát và cười. Hình ảnh khỏe khoắn, nhịp điệu đi nhanh, mạnh, hồ hởi kết hợp với điệp khúc: “Vui hát ca hòa vui hát ca” láy đi láy lại tạo cho bài hát như một tổng phổ về niềm vui của sự đổi đời: “Vui hát ca hòa vui hát ca dân vui nắng như chim Xuân thấy mùa/ Vui hát ca hòa vui hát ca hòa những lưới mắc, ta vui khoang cá đầy/ Vui hát ca hòa vui hát ca hòa với ánh sáng ta đang xây đời mới…”.
Bài hát “Tiếng hát trên sông Lô” của Phạm Duy cũng là tiếng hát về niềm vui hòa bình theo một phong cách đối lập triệt để không thời gian: “Trên nước sông Lô, thuyền ơi, ta hát say sưa/ Quân cướp đi xa, về đây ta sống chan hòa/ Sông nước hôm qua còn reo như gió như mưa/ Sông nước hôm nay lại trôi êm ái như xưa…”. Nhịp thơ nhẹ nhàng luyến láy trôi giữa hai bờ xưa nay của dòng huyền thoại rồi thao thiết hướng dòng về phía biển niềm tin, hy vọng và “chan hòa” hạnh phúc!
Hòa bình trở về. Tàu của người Pháp xâm lược bị vùi sâu xuống đáy sông. Dòng Lô trở thành huyền thoại về cái đẹp và sự giàu có, trù phú, thịnh vượng của đất nước. Lời thơ chứa chan hy vọng chắp cánh để hình tượng Tổ quốc bay lên: “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi/ Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt/ Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát/ Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca” (Tố Hữu – “Ta đi tới”). Do đặc trưng địa hình nên trên mặt sông Lô thường có hình tượng con đò gắn nối hai bờ. Năm 1957, thi sĩ Trần Dần trong “Bài thơ Việt Bắc” đã để lại một hình tượng con đò ngơ ngác trong sự thơ mộng của đất trời Việt Bắc: “Đây!/ Việt Bắc!/ Sông Lô/ nước xanh/ tròng trành mảnh nguyệt/ Bình Ca/ sương xuống/ lạc con đò!”. Ai quá giang sông Lô bằng con đò đêm cuối năm mới thấy hình ảnh “tròng trành mảnh nguyệt” thi vị vô cùng!
Hầu như những dòng sông lớn trên thế giới đều lưu giữ trong nó những truyền thuyết về tình yêu. Chắc hẳn có lý do là giữa hình tượng sông và tình yêu có những liên tưởng thẩm mỹ gần gũi như cùng đầy sức sống mãnh liệt cũng đầy sự bí mật; cuồng nhiệt, nồng nàn; hy sinh, vị tha và đợi chờ… Những điều ấy luôn được biểu hiện sinh động trong những loại hình nghệ thuật.
Với sông Lô thời hiện đại lại gắn liền với huyền thoại về tình yêu cùng những cung bậc đợi chờ khắc khoải trong bài hát “Sông Lô chiều cuối năm” của Minh Quang: “Sông Lô chiều cuối năm/ bất chợt gặp câu hát từ bến sông xưa vọng lại…”. Thời điểm buổi chiều, lại cuối năm càng gợi lên sự xao xuyến, bâng khuâng về gặp gỡ đoàn tụ gia đình, về hạnh phúc, nhất là với những người lữ thứ xa quê. Trong hòan cảnh ấy người nhạc sĩ tài hoa “bất chợt gặp câu thơ ai bỏ quên giữa dòng”, câu thơ nói về mối tình trắc trở giữa một người con gái và một người lính. Lời hát da diết, khắc khoải rồi nấc lên trong nghẹn ngào…
Sắp Tết người ta tìm về gia đình “ai tìm về bên ai”, còn “ta tìm về bên em”… Họ không gặp nhau, “sao người con gái ấy nơi đâu, để lại bến sông xưa bâng khuâng một con đò”. Hoa đào của tình yêu và đoàn tụ vẫn cứ nở đỏ trong không gian chiều như nâng đỡ nỗi bâng khuâng ấy thành một lý tưởng thẩm mỹ đẹp, tuy buồn và đầy thổn thức nhưng không nguôi hy vọng. Không còn là nỗi bâng khuâng của riêng nhạc sĩ đa cảm mà là tâm trạng chung của những tâm hồn đồng điệu!
Huyền thoại tình yêu ấy sẽ sống mãi vì đã hòa nhập vào đất nước, đã hy sinh vì hòa bình của thiên nhiên xứ sở, cho những dòng sông hiền hòa cần mẫn mang phù sa về đồng bằng mở rộng thêm đất đai tiên tổ!