Lịch sử phát triển
Vào đầu thế kỷ 20, phong trào Phật giáo lớn mạnh lan rộng ở Việt Nam. Từ Sài Gòn và Gia Định, phong trào này đã lan tỏa đến các vùng nông thôn và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại giai đoạn này, đã xuất hiện một số tôn giáo mới dưới hình thức hoạt động tôn giáo và giúp đỡ người nghèo. Một trong những tôn giáo mới đáng chú ý là Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam (TĐCSPHVN). HEFC
Người sáng lập và tôn chỉ
TĐCSPHVN được sáng lập bởi Nguyễn Văn Bồng, người sinh năm 1886 tại tỉnh Đồng Tháp. Nguyễn Văn Bồng đã nắm vững kiến thức về y học cổ truyền Việt Nam nhờ nền tảng Nho học và trí tuệ thông tuệ của mình. Ngay từ khi thành lập, TĐCSPHVN đã áp dụng việc truyền bá giáo lý Phật qua thơ ca, văn vần và đối đáp ngắn gọn dễ hiểu, nhằm tiếp cận mọi người và khuyến khích họ tham gia vào hoạt động từ thiện. Với những hoạt động kết hợp giữa phật pháp và từ thiện, TĐCSPHVN ngày càng thu hút nhiều người quan tâm. HEFC
Cơ sở giáo lý và hành trình tu học
Giáo lý của TĐCSPHVN dựa trên giáo lý Phật đà, nhưng được diễn đạt một cách ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với cuộc sống của người dân ở Nam bộ. Trong giáo lý này, có sáu quyển kinh, luật, luận căn bản được tập trung, như Lễ Bái Lục Phương, Phu Thê Ngôn Luận, Đạo Đức, Giới Luật, Phật Học Vấn Đáp và Phương Pháp Kiến Tánh. TĐCSPHVN cũng có những qui định về tổ chức và lễ nghi, như cơ cấu tổ chức, ngày lễ lớn và hành lễ công phu tứ thời. HEFC
Tổ chức và quy mô
TĐCSPHVN hiện tại có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có Phòng Thuốc Nam phước thiện. Tổ đình Hưng Minh Tự tại TP. Hồ Chí Minh là trụ sở chính của TĐCSPHVN. Tổ chức này được quản lý theo hệ thống từ Trung ương xuống đến các Tỉnh/Thành hội, quận/huyện, phường/xã và ấp hội. TĐCSPHVN đặt mục tiêu tu học, hành thiện và đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội. Năm 2006, TĐCSPHVN đã nhận được giấy phép hoạt động tôn giáo từ Nhà nước và được công nhận chính thức vào năm 2007. HEFC